Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
– Ngay khi thai phụ đến khám thai lần đầu, nên đánh giá các yếu tố nguy cơ. Nếu thai phụ có các yếu tố nguy cơ cao như tuổi trên 35, béo phì, tiền căn có đái tháo đường thai kỳ, đường niệu dương tính, có tiền căn gia đình bị đái tháo đường sẽ được tầm soát đái tháo đường ngay. Nếu thai phụ có yếu tố nguy cơ trung bình sẽ thực hiện tầm soát vào tuần lễ thứ 24-28 của thai kỳ.
– Chẩn đoán xác định đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp 75g glucose, làm vào buổi sáng sau khi sản phụ đã nhịn đói trên 9 giờ. Tuy nhiên tiêu chuẩn chẩn đoán này chủ yếu dựa trên ngưỡng đường huyết có khả năng gây ra nguy cơ cho người mẹ mà ít tính đến nguy cơ cho thai nhi. Một tiêu chuẩn chẩn đoán mới đã được áp dụng tại nhiều nước để hạn chế các nguy cơ cho thai nhi, theo đó các ngưỡng đường huyết lần lượt là 5,1 mmol/l (đói), 10,0 mmol/l (sau ăn 1h) và 8,5 mmol/l (sau ăn 2h).
Thai nhi của các sản phụ bị đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ gì?
Các dị tật bẩm sinh
– Nếu người mẹ không được kiểm soát tốt đường huyết thì thai nhi có nguy cơ cao bị các dị tật bẩm sinh, có thể rất nặng. Các dị tật có thể gặp ở hệ thần kinh (thai vô sọ, nứt đốt sống, não úng thủy), hệ tiết niệu (teo thận, nang thận, hai niệu đạo), nhưng phổ biến nhất là các dị tật tim mạch (thông liên thất, thông liên nhĩ, đảo chỗ các mạch máu lớn)…
– Tỉ lệ này ở những đứa trẻ là con của các bà mẹ kiểm soát đường huyết kém là 6-12%, so với 2% ở những đứa trẻ của các bà mẹ không bị đái tháo đường hoặc có đái tháo đường nhưng đường huyết được kiểm soát tốt.
Thai to trên 4.000 gam hoặc thai kém phát triển
– Nhiều thai nhi của các bà mẹ được kiểm soát đường huyết kém có trọng lượng to so với tuổi thai. Thai to là hậu quả của một chuỗi các bất thường: đường huyết của mẹ cao, đường huyết của thai cao, tăng tiết ở thai, kích thích thai phát triển to.
– Ngược lại, thai của một số bà mẹ bị đái tháo đường lâu, đã có biến chứng mạch máu thường bị kém phát triển trong tử cung, có thể do sự kém tưới máu nuôi dưỡng cho tử cung – nhau thai. Một nguyên nhân khác là do kiểm soát đường huyết quá chặt (đường huyết sau ăn trung bình dưới 6,1 mmol/l) cũng làm thai kém phát triển.
Đa ối
Đa ối là tình trạng có quá nhiều nước ối (trên 1000 ml, thường là hơn 3000 ml), làm cho các sản phụ rất khó chịu hoặc đau nhiều trước khi đẻ, và thường kết hợp với thai to. Tăng thể tích nước ối có liên quan không chỉ với nồng độ đường huyết, mà còn với các chất tan trong nước ối hoặc do thai bài tiết quá nhiều nước tiểu. Các yếu tố khác có thể là do thai giảm nuốt, hoặc do rối loạn vận chuyển nước qua các khoang trong buồng tử cung… Rất hiếm gặp đa ối ở những thai phụ được kiểm soát tốt đường huyết.
Sảy thai hoặc thai chết lưu
Trước những năm 1970, tỉ lệ thai chết lưu ở những phụ nữ bị đái tháo đường trong 3 tháng cuối của thai kỳ là hơn 5%. Các nguyên nhân chính gây chết thai là dị tật bẩm sinh, suy hô hấp thai hoặc người mẹ bị nhiễm toan ceton. Một số trường hợp chết thai có liên quan đến sản giật hoặc tiền sản giật, là một biến chứng khá phổ biến ở những sản phụ bị đái tháo đường. Ngày nay nhờ được chẩn đoán sớm hơn và kiểm soát đường huyết tốt hơn nên tỉ lệ này giảm xuống rõ rệt.
Điều trị đái tháo đường lúc có thai
Mục tiêu đường huyết
– Các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ phải được kiểm soát đường huyết tích cực và an toàn trong một khoảng hẹp, để đảm bảo an toàn cho cả sản phụ và thai nhi.
– Đường huyết lúc đói dưới 5,8mmol/l, đường huyết 1 giờ sau ăn 7,8mmol/l và 2 giờ sau ăn dưới 7,2mmol/l. Cũng không nên để mức đường huyết lúc đói thấp dưới 3,4 mmol/.
Dinh dưỡng điều trị
– Tổng số năng lượng mỗi ngày dành cho bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ được tính dựa trên cân nặng lý tưởng. Trên phụ nữ đã có cân nặng lý tưởng tổng số năng lượng là 30 Kcal/kg, những thai phụ gầy cần nhiều năng lượng hơn và ngược lại. Chế độ dinh dưỡng cần đảm bảo sự tăng trọng cần thiết trong thai kỳ: 0,45kg mỗi tháng trong quí đầu, 0,2 – 0,35kg mỗi tuần trong quí 2 và 3 của thai kỳ.
– Bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ nên kiêng các thức ăn, nước uống chứa nhiều đường hấp thu nhanh như sữa đặc, nước ngọt, bánh kẹo… và hạn chế các đồ ăn nếp như xôi, bánh chưng… Khuyến khích ăn các loại carbohydrat hấp thu chậm (đường phức và các chất xơ). Tổng số năng lượng được chia đều cho 3 bữa ăn chính và 3 bữa ăn phụ nhưng không nên ăn nhiều carbohydrat vào buổi sáng.
Điều trị bằng thuốc
– Điều trị bằng thuốc được chỉ định khi bệnh nhân không thể ổn định đường huyết bằng tiết chế đơn thuần. human (nguồn gốc người) là thuốc được FDA chấp nhận cho điều trị bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ, như thường () và bán chậm NPH (insulatard) hoặc hỗn hợp (mixtard) giữa thường và. Tiêm dưới da 2 – 4 lần mỗi ngày, vào trước bữa ăn và trước lúc đi ngủ. Đồng thời, các bệnh nhân cũng được bác sỹ khuyên dùng các loại thảo dược nguồn gốc thiên nhiên để điều trị tiểu đường thai kỳ, bởi tính an toàn và hiệu quả của nó. Hiện nay, hạt methi là thảo dược được nhiều người tin dùng và đánh giá cao trong việc ổn định đường huyết, giảm cholesterol.
– Các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ cần đo đường huyết 4 – 6 lần/ngày (vào trước bữa ăn và 2 giờ sau ăn, trước khi đi ngủ). Bệnh nhân cần liên hệ với bác sĩ ngay nếu thấy kết quả đường huyết cao hoặc thấp bất thường. Chú ý thử ceton niệu khi đường huyết không ổn định hoặc khi thai phụ bị nôn nhiều.
Bà bầu tiểu đường cần đề phòng các nguy cơ đối với thai nhi
Các nguy cơ có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh trong tuần đầu sau đẻ
Suy hô hấp cấp
Con của những sản phụ không được kiểm soát đường huyết tốt có nguy cơ cao bị suy hô hấp cấp do phổi chưa phát triển hoàn chỉnh, bệnh thường nặng và tỉ lệ tử vong khá cao. Trẻ bị suy hô hấp cấp thường thở rất nhanh trên 60 lần/ phút, khò khè, co kéo lồng ngực và cả bụng, tím tái… việc điều trị khá phức tạp nhưng ngày nay đã có một số phương pháp đạt kết quả tốt.
Hạ đường huyết
Trẻ sơ sinh có thể bị hạ đường huyết trong vòng 48 giờ đầu sau đẻ, đường huyết có khi thấp dưới 1,7 mmol/l. Nguyên nhân là do tình trạng tăng máu vẫn còn tồn tại sau đẻ. Thường đứa trẻ bị hôn mê hơn là kích thích, và hạ đường huyết có thể phối hợp với ngừng thở, hoặc thở nhanh, tím, hoặc co giật. Phòng ngừa bằng cách cho uống nước đường hoặc cho qua sonde dạ dày sau đẻ khoảng 1 giờ, nếu biện pháp này không thành công thì cho truyền tĩnh mạch dung dịch đường glucose.
Một số rối loạn khác là hạ canxi máu, tăng bilirubin máu (gây vàng da), đa hồng cầu và ăn kém.
Tóm lại, tất cả các bệnh nhân đái tháo đường thai kỳ cần được điều trị tích cực nhằm kiểm soát tốt đường huyết trong suốt thời gian mang thai. Bên cạnh đó, thai nhi cần được theo dõi thường xuyên để có thể phát hiện được sớm các dị tật, các nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển của thai, từ đó các thầy thuốc có kế hoạch can thiệp kịp thời và hiệu quả nhất.
Xem thêm thông tin về bệnh tiểu đường và cách điều trị tại: www.hatmethiando.net/c/thong-tin-benh-tieu-duong.htm